Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Sa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hoàng Sa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 20 tháng 1, 2010

Hoàng Sa nổi lên trở lại thành điểm nóng trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc

Trọng Nghĩa – RFI
Trước một loạt hành động mới đây của Trung Quốc nhằm áp đặt chủ quyền của họ tại Biển Đông, đặc biệt là tại vùng quần đảo Hoàng Sa, Việt Nam cần công khai hoá vấn đề này hơn nữa trước công luận trong và ngoài nước để gây áp lực với Bắc Kinh. Theo giáo sư Ngô Vĩnh Long, thái độ kín đáo cố hữu có nguy cơ làm chính quyền Việt Nam suy yếu, chỉ có lợi cho Trung Quốc.

Trong thời gian gần đây, vấn đề Hoàng Sa nổi lên thành điểm nóng trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, với việc Bắc Kinh có hàng loạt hành động nhằm áp đặt chủ quyền trên quần đảo vốn đã bị Trung Quốc dùng võ lực chiếm đóng từ tháng giêng năm 1974 đến nay. Hà Nội đã liên tiếp phản đối về mặt ngoại giao, đồng thời xác định trở lại chủ quyền của mình.
Theo một số nhà phân tích, để đối phó với chiến lược của Trung Quốc trong hồ sơ Hoàng Sa, Việt Nam cần tranh thủ thế mạnh của mình : đó là đòi hỏi chủ quyền có cơ sở pháp lý vững chắc hơn Trung Quốc rất nhiều. và nhất là quảng bá rộng rãi vấn đề này trong công luận trong nước và ngoài nước để gây sức ép trên Trung Quốc.
Một loạt động tác khiêu khích mới của Bắc Kinh tại Hoàng Sa
Hành động gần đây nhất của Trung Quốc là việc chính quyền Bắc Kinh công bố chủ trương đẩy mạnh phát triển du lịch ở đảo Hải Nam của Trung Quốc, nhưng cũng mở rộng du lịch tại quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Theo tiết lộ của nhật báo Hồng Kông South China Morning Post ngày 6/1/2010, Bắc Kinh quyết tâm xúc tiến việc phát triển du lịch tại Hoàng Sa, bất kể tranh chấp với Việt Nam về chủ quyền trên quần đảo này.
Tờ báo tự hỏi là chính quyền Trung Quốc sẽ làm cách nào để biến các hòn đảo này thành một địa điểm du lịch “thượng thặng” như mong muốn, khi mà nơi này hiện chỉ có cơ sở quân đội hay nhà trọ dành cho những người đến đấy làm việc tạm thời mà thôi. Cho dù vậy chính quyền cũng đã tổ chức những tour du lịch Hoàng Sa cho du khách Trung Quốc, và sẽ mở rộng cho khách du lịch nước ngoài.
Việt Nam đã lên tiếng phản đối Trung Quốc vi pham chủ quyền Việt Nam, trong lúc Bắc Kinh, như thông lệ, khẳng định trở lại quyền hành động của họ trên vùng biển mà họ tự nhận chủ quyền.
Quyết định trong lãnh vực du lịch kể trên đã tiếp nối theo một loạt những hành động lấn lướt khác của Trung Quốc đối với Việt Nam liên quan đến khu vực Hoàng Sa. Vào hạ tuần tháng 12, một mặt Quốc hội Trung Quốc thông qua Luật bảo vệ hải đảo, có giá trị pháp lý đối với cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Biển Đông, một mặt khác họ phái hai tầu tuần tra cỡ lớn xuống đảo Phú Lâm (Woody Island), đảo lớn nhất ở Hoàng Sa để ”bảo vệ quyền lợi” của ngư dân Trung Quốc.

Ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắt giữ (Ảnh : DR)
Vào năm ngoái, dân chài Việt Nam đánh bắt cá tại vùng ngư trường truyền thống của mình gần Hoàng Sa đã bao lần bị khốn đốn vì bị lực lượng Hải quân Trung Quốc bắt bớ, tàu bè bị tịch thu, đòi nộp tiền chuộc cực cao. Các sự cố này nhiều và nghiêm trọng đến mức chính quyền Việt Nam phải nhiều lần lên tiếng phản đối.
Bên cạnh đó, theo báo chí chuyên môn về dầu khí, mới đây Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc CNOOC vừa ký kết một hợp đồng phân chia sản phẩm với một tập đoàn dầu khí Anh Quốc để đồng khai thác tại một lô thuộc khu vực bồn địa Quỳnh Đông Nam gần Hoàng Sa. Mọi người chờ đợi Việt Nam lên tiếng.
Tóm lại, bất chấp những lời phản đối của Việt Nam, bất chấp Bản Tuyên bố về các Quy tắc Ứng xử tại vùng Biển Đông mà họ đã ký kết với Asean, Trung Quốc càng lúc càng có thêm những quyết định đơn phương áp đặt các đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông nói chung và đặc biệt ở vùng Hoàng Sa.
Trả lời phỏng vấn của Ban Việt ngữ RFI, giáo sư Ngô Vĩnh Long, chuyên gia về Trung Quốc tại trường Đại Học Maine (Hoa Kỳ) thẩm định rằng các hành động của Trung Quốc tại vùng Hoàng Sa mang tính chất khiêu khích để thăm dò phản ứng của chính quyền Việt Nam, với dụng ý là củng cố một tình trạng đã rồi mà họ tạo dựng được bằng võ lực, để khoả lấp những yếu kém về mặt cơ sở lịch sử và pháp lý biện minh cho chủ quyền họ đòi hỏi.
Đằng sau chiêu bài tổ chức du lịch đến vùng Hoàng Sa, giáo sư Long còn ghi nhận thâm ý chiến lược của Trung Quốc, mượn cớ du lịch để thu thập cách dữ liệu cho hải quân và không quân Trung Quốc trong trường hợp phải tung quân xuống các vùng hải đảo phiá Nam.

Thanh niên Việt Nam đã từng xuống đường khắp nơi phản đối Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền đất nước trên Hoàng Sa và Trường Sa như ở Pháp (T), Việt Nam (G) và Đức (P). (Ảnh ghép : DR)
Theo giáo sư Ngô Vĩnh Long, nếu Việt Nam phản ứng một cách yếu ớt, Trung Quốc tất nhiên sẽ tìm cách lấn lướt thêm. Ngoài ra, nếu chính quyền Việt Nam không khéo thì sẽ bị mất uy tín trước dân chúng Việt Nam, bị suy yếu đi, và như thế chỉ có lợi cho Trung Quốc mà thôi. Đối sách tốt nhất trước thái độ chèn ép của Trung Quốc là chính quyền Việt Nam phải công khai hơn nữa vấn đề tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông với Trung Quốc, để cho công luận trong nước và ngoài nước cùng hiểu rõ, qua đó gây sức ép trên Trung Quốc.
Sau đây mời quý vị nghe bài phỏng vấn giáo sư Ngô Vĩnh Long.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long, Đại học Maine (Hoa Kỳ)
RFI : Kính chào giáo sư Ngô Vĩnh Long, thưa giáo sư, trong thời gian gần đây, người ta thấy trong tranh chấp Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, trọng tâm tranh chấp có vẻ như chuyển qua khu vực quần đảo Hoàng Sa. Giáo sư giải thích hiện tượng đó như thế nào ?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long : Trước hết, tôi xin nói, đây không phải chỉ là vấn đề tranh chấp ở Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây là vấn đề bành trướng của Trung Quốc đối với khu vực Biển Đông, kể cả khu vực Thái Bình Dương nữa. Ví dụ, ngày 18/12/2008, tại Washington, Đô đốc Mỹ Timothy Keating nói rằng một số đề đốc của Trung Quốc đề nghị với ông rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc chia Thái Bình Duong làm đôi [lấy mốc là đảo Hawaii]. Ông Keating nói rằng ông để ý đến đề nghị đó, nhưng ông không đồng ý.

Tàu đánh cá Trung Quốc dừng trước quân hạm của Mỹ (AFP)
Sau đó, vào tháng 3 năm 2009, khi tàu của Mỹ đi vào khu vực gần đảo Hải Nam, cách đảo này 75 dặm, thì Trung Quốc cho một số tàu của Trung Quốc ra bao vây. Rồi sau đó, khi tàu trinh sát của Hoa Kỳ đi trong khu vực gần Philippines thì Trung Quốc cho tàu của mình ra đụng và cắt đứt dây cáp kéo linh kiện do thám của tàu Mỹ.
Bắt đầu từ cuối 2008 trở đi, Trung Quốc muốn nắn gân Mỹ và muốn dọa các nước khác ở trong khu vực, cũng nhu muốn làm cho dân Trung Quốc tự hào về sự lớn mạnh của quân đội của họ. Đó là lý do.
Bắc Kinh tìm cách khoả lấp thế yếu về pháp lý
Còn đối với Việt Nam, vấn đề Hoàng Sa, nếu nói tranh chấp thì chỉ có Việt Nam và Trung Quốc tranh chấp thôi. Hoàng Sa gần đảo Hải Nam. Đảo Hải Nam là nơi mà Trung Quốc sẽ trở thành đầu não của Nam Hải Hạm Đội của Trung Quốc. Trung Quốc muốn từ đó bành trướng đi và muốn dùng Hoàng Sa như một nơi để điều phóng hải quân Trung Quốc càng ngày càng về phía nam.
Cho nên, nếu đe dọa Việt Nam và Việt Nam chịu nhượng bộ trong khi các nước khác không có tranh chấp ở vùng đó, thì tất nhiên Trung Quốc được lợi. Đó là lý do vì sao Trung Quốc càng ngày càng tỏ thái độ rất căng ở vùng Hoàng Sa. Thực ra, tình hình ở vùng phía dưới cũng căng, nhưng như anh nói, đối với Hoàng Sa, Trung Quốc tỏ ra rất căng đối với Việt Nam.

Tàu đánh cá Việt Nam bị hải quân Trung Quốc chặn lại
Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa năm 1974 bằng quân sự. Về lý do lịch sử, luật pháp, trong vấn đề Hoàng Sa, Trung Quốc ở thế yếu chứ không phải là mạnh. Nếu Việt Nam im lặng, không tiếp tục đấu tranh, không tiếp tục nói cho thế giới biết là Trung Quốc đã làm những việc bất hợp pháp, thì theo luật pháp quốc tế, nếu anh im lặng thì có nghĩa là anh bằng lòng, anh chịu. Do vậy, nếu Trung Quốc làm như vậy mà Việt Nam im, không làm gì thì Trung Quốc có thể nói, là thấy không, Việt Nam chịu rồi, có chuyện gì đâu. Đây chỉ là chuyện giữa Việt Nam với Trung Quốc.
Lẽ dĩ nhiên là có cả Đài Loan trong đó, nhưng Đài Loan và Trung Quốc cũng có những yêu sách giống nhau. Nếu vậy, các nước khác sẽ nói, đối với Hoàng Sa, Việt Nam chịu lép với Trung Quốc, không chịu đấu tranh thì chúng tôi dại gì mà đưa đầu ra. Chúng tôi đưa đầu ra có lợi gì ? Chúng tôi thương lượng với Trung Quốc về các vấn đề khác. Như vậy, Trung Quốc dùng vấn đề Hoàng Sa để khiêu khích Việt Nam, để xem Việt Nam sợ Trung Quốc như thế nào hay là nhũn như thế nào ?
Ý đồ quân sự đằng sau hoạt động du lịch
RFI :  Thưa giáo sư, mới đây, liên quan đến hành động của Trung Quốc, họ cho tổ chức du lịch tới khu vực Hoàng Sa. Vậy, ẩn ý đằng sau quyết định mang tính chất kinh tế du lịch là gì ?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long : Trước hết, về kinh tế du lịch, sẽ không có nhiều người đi du lịch Hoàng Sa. Thực chất vấn đề là như sau. Muốn phát triển du lịch thì phải có sân bay. Bây giờ, Trung Quốc bành trướng, làm sân bay rộng hơn. Sau đó, trên danh nghĩa là để cho du lịch nhưng để xem thử máy bay từ Hải Nam hay một số vùng khác của Trung Quốc đến Hoàng Sa sẽ mau như thế nào, đáp xuống như thế nào. Trong khi đó, thuyền từ Hải Nam xuống sẽ đi nhanh như thế nào, để Trung Quốc có thể kết hợp thuyền đổ bộ và máy bay với mục đích chuẩn bị về quân sự, xem khả năng đáp ứng của họ về mặt quân sự như thế nào.
Vấn đề lớn ở đây không phải là tổ chức du lịch, mà là phô trương và khiêu khích Việt Nam.
RFI : Thưa giáo sư, trong phản ứng của phía Việt Nam, như giáo sư vừa nói, thì Việt Nam phải lên tiếng, khẳng định trở lại chủ quyền của mình trong khu vực. Nhưng đó là những phản ứng về mặt ngoại giao « suông », có thể nói như vậy. Ngoài việc này, thì Việt Nam có thể làm được gì khác ?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long : Tôi đồng ý là ngoại giao « suông » không được. Nếu chỉ ngoại giao « suông » giữa hai nước với nhau thì thua Trung Quốc. Trong vấn đề này, Trung Quốc đã dùng vũ lực để lấy Hoàng Sa mà Trung Quốc lại dùng vũ lực một cách sai trái.
Vấn đề bây giờ như sau. Việt Nam là nước yếu, không có quân sự mạnh, thì không có thể tái chiếm Hoàng Sa, mà tái chiếm thì sẽ có chiến tranh ngay. Khi đánh nhau với Trung Quốc thì không nước nào bênh vực Việt Nam đâu. Bởi vì như tôi đã nói, các nước khác không có quyền lợi ở đó. Trừ phi có đe dọa đối với thông thương hàng hải, nhưng đó là vấn đề khác.
Do vậy, ở đây, chính phủ Việt Nam phải để cho người dân Việt Nam, phải để cho trí thức và dân chúng trên thế giới bàn về chuyện này. Nếu Trung Quốc dọa Việt Nam mà Việt Nam lại bắt bớ những người chống chính sách về Hoàng Sa hay là nói rằng chính phủ quá nhượng bộ với Trung Quốc về Hoàng Sa, thì Trung Quốc sẽ làm tới. Đây là vấn đề rất nguy hiểm cho chính phủ Việt Nam.
“Cố ý dùng Hoàng Sa để hạ uy tín chính quyền Việt Nam”
Bởi vì, vấn đề ở đây là như thế này. Trung Quốc cố ý dùng vấn đề Hoàng Sa để làm mất chính danh của chính phủ Việt Nam, làm mất uy tín của chính phủ Việt Nam đối với nhân dân Việt Nam và đối với nhân dân thế giới. Nếu chính phủ Việt Nam im lặng hoặc bắt bớ những người chống chính sách của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, thì hóa ra, người ta sẽ nghĩ rằng chính phủ Việt Nam và những lãnh tụ Việt Nam là những con chốt, những con cờ của Trung Quốc.
Khi người ta nghĩ như vậy, thì chính phủ Việt Nam mất chính danh. Làm suy yếu chính phủ Việt Nam, Trung Quốc sẽ có cơ hội để bắt bí chính phủ Việt Nam, bắt bí những lãnh đạo Việt Nam về những vấn đề khác. Nguy hiểm là ở chỗ đó. Chính phủ Việt Nam, nếu không nói được thì phải để cho nhân dân Việt Nam nói và dân chúng các nước khác nói. Có thể không bao giờ lấy lại được Hoàng Sa, nhưng phải làm cho Trung Quốc bị động.
RFI : Thưa giáo sư, cho tới nay, nhiều người nói rằng đứng về mặt kinh tế, Việt Nam và một số nước Đông Nam Á cần đến Trung Quốc. Vì lý do đó mà chính quyền Việt Nam có một thái độ có thể nói là nhũn nhặn đối với Trung Quốc, ngay cả trong vấn đề Hoàng Sa. Theo giáo sư, suy nghĩ này đúng sai ở chỗ nào ?
Giáo sư Ngô Vĩnh Long : Trước hết, tôi nghĩ rằng Việt Nam quá gần với Trung Quốc, do vậy, Việt Nam nhiều khi thán phục Trung Quốc quá lố. Một vấn đề khác là do quá gần, nên hàng hóa qua lại rất dễ, không phải đi xa, không cần luật lệ gì hết, miễn là hai bên đồng ý, gật đầu thì bên này kéo hàng sang bên kia. Trong khi đó, mậu dịch với châu Âu, với Mỹ thì khó khăn hơn, có nhiều luật lệ chặt chẽ hơn, hàng hóa phải sạch sẽ hơn v.v.
Không nên quá sợ Trung Quốc
Có nghĩa là muốn nhanh, muốn ẩu, thì cứ buôn bán với Trung Quốc. Một số người sẽ có lợi hơn. Nhưng, lợi cho một số người thì lại hại cho cả quốc gia. Hiện nay, nhập siêu của Việt Nam đối với Trung Quốc là lớn nhất so với các nước khác trên thế giới. Hàng Trung Quốc không bán được chỗ khác thì tống vào Việt Nam. Hàng Việt Nam cạnh tranh không được, bao nhiêu nhà sản xuất Việt Nam sạt nghiệp. Như vậy là phải làm công cho Trung Quốc.
Trong khi đó, Trung Quốc sẽ đầu tư ở huyện này, tỉnh kia, các nhà cầm quyền ở những địa phương này phải quỵ lụy Trung Quốc. Đó là chuyện đã xẩy ra. Tôi đã về Việt Nam nhiều lần. Theo tôi biết, Trung Quốc đã có ảnh hưởng đến tận quận, huyện ở Việt Nam rồi. Ngay ở Mỹ chẳng hạn, tôi có biết một số người Việt gốc Hoa buôn bán cho Trung Quốc, đầu tư cho Trung Quốc, Công ty của ở Mỹ nhưng mà tiền là của Trung Quốc. Họ nói với tôi rằng nếu họ muốn thay đổi một ông bí thư huyện, một ông bí thư tỉnh, họ thay đổi dễ như chơi. Cái khó khăn là như vậy.
Thành ra, khi Trung Quốc dọa thì một số người Việt Nam sợ. Tôi nói thẳng là từ 2006, tôi về Việt Nam rất nhiều lần. Ngay năm 2006, trước khi Việt Nam ký dự án bauxite, một số quan chức Việt Nam đã hỏi tôi : “Anh Long, anh chuyên về Trung Quốc, vậy anh nghĩ bây giờ, mình phải nhượng bộ Trung Quốc cái gì để họ khỏi làm phiền mình ?” Tôi nói : “Không nhượng bộ được bởi vì càng nhượng bộ, nó càng lấn tới”. Thế mà trong suốt hơn một năm, họ vẫn hỏi tôi câu đó. Rõ ràng là trong nước, có nhiều người có tư tưởng là nếu mình im, mình chịu nhượng cho Trung Quốc thì nó tha mình. Tôi nghĩ không phải như vậy.
RFI : Thì điều này cũng liên quan đến một vấn đề rất là mới. Vừa qua, ông đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam đã có một số tuyên bố mà có nhiều người cho rằng hàm ý đe dọa Việt Nam.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long : Tôi đồng ý với điều phê phán đó. Ông Tôn Quốc Tường nói rằng hợp tác với Trung Quốc thì sẽ phát triển, còn đấu tranh thì sẽ thất bại. Ông ấy nói trước công chúng. Ông ấy nói cho toàn thể dân tộc Việt Nam, chứ không phải  nói riêng với các lãnh tụ. Tôi nghĩ là họ đã đe dọa các lãnh đạo Việt Nam nhiều lần rồi.
Nhưng tại sao, ông ấy lại nói cho tất cả dân tộc Việt Nam như vậy, một cách rất trịch thượng. Tôi nghĩ, ông ấy nói như vậy, trước hết là để đe dọa dân chúng Việt Nam, nhưng vấn đề khác là để xem thử phản ứng của chính phủ Việt Nam như thế nào. Nếu chính phủ không phản ứng, thì chính phủ Việt Nam mất uy tín.

Ảnh chụp trang blog Mẹ Nấm với biểu tượng chống Trung Quốc, bị chính quyền Việt Nam làm khó dễ RFI
Nếu những người phản ứng lại bị chính phủ Việt Nam hay là các cơ quan gọi vào điều tra, hỏi tại sao anh nói thế này, tại sao anh nói thế kia, làm như vậy thì khó khăn cho vấn đề bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc v.v. thì điều này lại càng làm cho chính phủ Việt Nam mất chính danh. Nếu mất chính danh, chính phủ Việt Nam suy yếu, Trung Quốc sẽ thừa thế chia rẽ Việt Nam và họ sẽ càng mạnh hơn lên.
Phát biểu của đại sứ Trung Quốc không chỉ là trịch thượng mà là có suy tính và cố ý để chia rẽ hay làm suy yếu chính quyền Việt Nam, làm cho chính quyền Việt Nam mất chính danh. Theo tôi, đó là một đòn tâm lý, loại chiến tranh tâm lý.
Phải để cho dân chúng và thế giới hiểu rõ vấn đề Hoàng Sa
Tôi nghĩ là nhiều chuyện, chính phủ Việt Nam không làm được. Trong ngoại giao giữa hai nước, thì nước lớn bao giờ cũng mạnh. Chúng ta học được nhiều bài học về vấn đề đó rồi. Chúng ta học được bài học về Pol Pot. Nhiều chuyện về Pol Pot mà Việt Nam giấu đi mặc dù là quan hệ rất là xấu với Trung Quốc. Cho đến khi chuyện xẩy ra rồi, Việt Nam không thể nào giải thích được với thế giới là chuyện gì đã xẩy ra.
Lúc đó, để bảo vệ đất nước, Việt Nam mới bắt buộc đánh đuổi Polpot. Trung Quốc dùng vấn đề này để vận động Mỹ và bao nhiêu nước khác bao vây Việt Nam hơn 10 năm, gây rất  nhiều khó khăn cho Việt Nam.
Rồi trong vấn đề Hoàng Sa, trong bao nhiều năm trời, Việt Nam cũng im lặng, lâu lâu mới lên tiếng rằng Việt Nam có nhiều cái này cái kia chứng minh chủ quyền, nhưng không làm gì khác, không để cho nhân dân Việt Nam bàn luận về vấn đề này. Không nói cho nhân dân thế giới biết là trong vấn đề này, Việt Nam mạnh chỗ nào, yếu chỗ nào, có lý chỗ nào v.v.
Đến khi Trung Quốc làm quá, bắt thuyền của Việt Nam thì phản ứng của Việt Nam lúc đầu là dẹp hết các blog chỉ trích chính phủ, đuổi một số ký giả ở trong một số báo. Mạng bauxite Việt Nam bắt đầu nói về vấn đề bauxite và quyền lợi Việt Nam như thế nào, Biển Đông như thế nào, tôi không biết ai đánh sập cái mạng này, nhưng tôi biết rõ ràng là ông Nguyễn Huệ Chi và bao nhiêu người khác bị an ninh Việt Nam gọi vào hỏi, lấy ổ đĩa cứng máy tính v.v. Làm như vậy thì sẽ mất chính danh của chính phủ. Mọi người thấy là chính phủ đàn áp hay là có cảm tưởng là chính phủ đàn áp vì Trung Quốc.
Để lấy lại chính danh, hay là để chứng minh cho dân chúng biết rằng Việt Nam cũng bảo vệ tổ quốc thì mình lại bỏ ra bao nhiêu tiền để mua vũ khí, mua tàu ngầm. Tôi đồng ý là phải tự vệ, nhưng mặt khác, nếu chúng ta có đường lối ngoại giao tốt, ngoại giao nhân dân, biết suy nghĩ trước, chuẩn bị đàng hoàng, thì không cần phải làm những vấn đề gấp như thế. Mua tàu bay, tàu ngầm trong khi kinh tế vẫn khó khăn. Hay là làm gấp như hồi đánh Polpot trong khi nếu chuẩn bị tốt thì không cần phải làm như vậy.
RFI : Xin thành thật cảm ơn giáo sư Ngô Vĩnh Long
Nguồn : RFI

Thứ Ba, 19 tháng 1, 2010

Ngày mất Hoàng Sa

Ngày 19/1/1974 sau một cuộc hải chiến ngắn ngủi, hải quân Trung Quốc đã chiếm quần đảo Hoàng Sa, khi ấy do Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố chủ quyền.
 

36 năm trước, Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại đã ra lệnh khai hỏa trước.

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại, cựu Phó Đề đốc hải quân Việt Nam CH, nguyên Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải là một trong các chỉ huy tham dự trận đánh.

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Vài ngày trước ngày 19/1, chúng tôi chịu trách nhiệm bảo vệ Vùng 1 Duyên hải, kể cả các hải đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa.

Chúng tôi thấy xuất hiện những sinh hoạt bất thường trên đảo. Trong các đảo thuộc chủ quyền VN thì đảo Hoàng Sa (Pattle) có người ở. Trên đảo có đài khí tượng và một đại đội lính đồn trú.

Những đảo kia thuộc quyền kiểm soát của VNCH, và không có quân. Khi thấy xuất hiện một số sinh hoạt khác thường trên đảo, chúng tôi cử người nhái và biệt hải lên thăm dò thì thấy quân nhân lạ và những chiếc tàu đánh cá có võ trang xuất hiện xung quanh.

Chúng tôi cư xử ôn hòa mời họ ra khỏi đảo. Tuy nhiên tàu lạ có hành động khiêu khích. Được sự đồng ý của tổng thống, chúng tôi dùng vũ lực để mời họ ra.

Trận hải chiến xảy ra vào lúc 10 giờ sáng ngày 19 tháng Giêng. Sự thiệt hại của hai bên coi như bằng nhau. Chúng tôi có tất cả 58 sĩ quan và thủy thủ đã bỏ mình trên chiến hạm, kể cả hai người nhái trên đất liền.




Hộ tống hạm Nhật Tảo đã bị đánh chìm trong trận chiến.

BBC: Là sĩ quan, và đồng thời là người lính tham chiến, cảm nghĩ của ông thời gian đó như thế nào sau khi bị mất đảo?

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Bây giờ nhìn lại, thấy rõ ràng năm 1973 khi Hoa Kỳ bắt đầu rút khỏi Việt Nam, thì quân lực Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu đơn độc không có sự hỗ trợ của đồng minh.

Hoa Kỳ vốn là đồng minh trợ giúp nhiều nhất thì đã rút khỏi Việt Nam. Lúc đó miền Nam lại đang vướng vào cuộc chiến với Hà Nội, thành ra chúng tôi không có đủ quân để giữ những hải đảo đó.

Tuy số quân hai bên không khác nhau nhiều nhưng chiến hạm của Trung Quốc tối tân hơn của VNCH. Chúng tôi quyết định rút lui khi cố vấn Hoa Kỳ cho biết 17 chiến hạm của TQ đang trên đường tới khu vực và khả năng sẽ có phi cơ phản lực tới từ đảo Hải Nam.

Hạm đội 7 của Hoa Kỳ ở gần đó đã không trợ giúp, ngay cả khi chúng tôi cầu cứu.

BBC: Hiện nay Việt Nam và Trung Quốc đang vướng vào tranh chấp về biển đảo, trong đó có Trường Sa. Lúc này Việt Nam không nằm trong liên minh quân sự nào, không có hậu thuẫn của một thế lực hay cường quốc nào. Ông có lo sợ trong tương lai sẽ xảy ra các cuộc hải chiến như vậy không, và có khả năng Việt Nam sẽ mất đảo?

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Theo tôi nghĩ, chuyện đó có thể xảy ra bất kỳ lúc nào, vì Việt Nam là quốc gia nhỏ bé trong vùng. Chuyện liên hệ quá gần gũi với Trung Quốc cũng có mặt dở của nó, đó là TQ hay lấn tới, có những hành động mà VN không nói gì được. Trung Quốc đâu có đụng các quốc gia khác ở vùng này như vậy đâu.

Tôi nghĩ sự đe dọa có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Nếu chính phủ Việt Nam không có thái độ thật mạnh hoặc dứt khoát, chuyện mất đảo vẫn có thể tiếp tục. Không chỉ đảo xa mà còn đến những đảo gần hơn nữa.

BBC: So sánh về tương quan lực lượng giữa hải quân của hai nước, liệu có thể ví một bên là chàng khổng lồ, con bên kia là người tí hon được không, thưa ông?

Ông Hồ Văn Kỳ Thoại: Theo tôi nghĩ chuyện tương quan lực lượng không thể đặt ra được vì hải quân TQ rất mạnh. Họ có rất nhiều tàu chiến, nhất là về phương diện tàu ngầm.

Còn hải quân Việt Nam, tuy có sự cố gắng nhưng không bao giờ có được những chiến hạm để đối phó với hải quân của một cường quốc như TQ. Nếu đụng độ giữa hai hải quân, tôi nghĩ hải quân VN không thể đương đầu nổi.

Nguồn BBC tiếng Việt, thứ ba, 19 tháng 1, 2010:

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2010/01/100119_hoangsa_36yrs_anniv.shtml

Nhớ ngày 19.01.1974, Quần đảo Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc

Bùi Minh Quốc

THƠ DÂNG

Kính dâng anh linh các liệt sĩ
vì Tổ Quốc đã bỏ mình trong lòng đất lòng biển
Hoàng Sa Trường Sa


Tôi ngước mắt vọng trời
Trời rựng máu
Hoàng Sa
Trường Sa

Tôi cúi đầu tìm đất
Đất ứa lệ
Hoàng Sa
Trường Sa

Tôi vây giữa ngàn thông ngàn hoa
Gốc thông nào cũng khắc
Hoàng Sa
Trường Sa

Cánh hoa nào cũng nhắc
Hoàng Sa
Trường Sa

Kìa vụt hiện ngọc ngà
Người mẫu
Em lớn từ lệ máu
Hoàng Sa
Trường Sa

Ê a bên thềm miệng sữa ê a
Vỗ lòng tôi tựa sóng
Hoàng Sa
Trường Sa

Sực nghe xuân gõ cửa mọi nhà
Âm âm
rền
Hoàng Sa
Trường Sa.

Đà Lạt 24g30.19.01.2008
BMQ

Thứ Ba, 12 tháng 1, 2010

Gặp ‘ông Hoàng Sa’ ở đảo Lý Sơn


Lời bình: Đất nước trường tồn là nhờ những con người yêu nước thầm lặng làm những công việc có vẻ bình thường như thế này. ---Bauxite Việt Nam

- Người đàn ông ấy dành trọn cuộc đời mình cho việc tìm tòi bảo tồn văn hóa đảo Lý Sơn, bảo vệ tư liệu, chứng tích lịch sử về Hoàng Sa.
“Bảng phong thần và những ngôi mộ gió”
Hơn 60 tuổi, sống ở huyện đảo Lý Sơn xa đất liền 30 hải lý, ông Phạm Thoại Tuyền sở hữu “kho báu” gần 1.000 mẫu vật trong bộ sưu tập về văn hóa Sa Huỳnh, gồm đồ gốm sứ, đồ thờ, chén dĩa cổ, bộ sưu tập tiền xu, tượng Chăm, ấn tín, các văn bản Hán Nôm, trong đó nhiều cổ vật có niên đại từ 2.000 đến 3.000 năm.
Đặc biệt, ông còn có cả một kho tàng tư liệu Hoàng Sa, Trường Sa, về huyện đảo Lý Sơn; trong đó có những tài liệu hết sức quý giá như văn bản về việc vua Gia Long phong thần cho những người có công đi Hoàng Sa.



“Ông Hoàng Sa” cần mẫn chăm sóc các cổ vật tìm thấy ở Lý Sơn.
Trong căn phòng khách rộng chưa đầy 30m2 – nơi dùng làm nơi cất giữ, trưng bày các cổ vật, ông Tuyền cẩn thận dỡ từng trang tư liệu quý: “Vào thế kỷ 16, Chúa Nguyễn đã lập đội Hoàng Sa để canh giữ biển đảo. Phần lớn đội Hoàng Sa lấy từ người làng An Vĩnh của huyện đảo Lý Sơn. Thông thường, từ tháng hai đến tháng ba hàng năm, đội này có nhiệm vụ vượt biển đến các đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các đảo phía Nam khác để đo đạc thuỷ trình, canh giặc biển, dựng bia chủ quyền, khai thác và đánh bắt thủy sản”.
Bao thế hệ dân binh đảo Lý Sơn đã ra đi bảo vệ Tổ quốc, tên tuổi nhiều người được ghi nhận trong các văn thư của triều đình, và không ít trong số họ đã bỏ thân trên biển…
Ông Tuyền cho biết trên đảo Lý Sơn đang tồn tại một loại mộ gọi là mộ chiêu hồn (nhiều người còn gọi là mộ gió) do người dân trên đảo lập ra, thờ cúng và tôn kính. Tuy nhiên, bên dưới không hề có xương cốt, chỉ có hình nhân thế mạng làm bằng đất sét trắng lấy từ trên đỉnh ngọn núi cao nhất của huyện đảo Lý Sơn trộn với lòng trắng trứng gà (tượng trưng cho những người ra đi đã không may nằm lại giữa biển xanh).
Đối với dân đảo, những ngôi mộ chiêu hồn này rất quan trọng trong đời sống tâm linh, dù chỉ là hình nhân thế mạng nhưng vẫn luôn được thờ cúng, chăm sóc hệt như những ngôi mộ thật.
Cứ đến ngày 1 âm lịch hàng tháng, ông Tuyền đều đến các ngôi mộ chiêu hồn này thắp hương làm lễ. Vào cuối tháng 11 hàng năm, bà con trên đảo Lý Sơn làm lễ cúng chung niên (lễ tạ) cầu cho cuộc sống bình yên, ghe thuyền đầy ắp tôm cá trở về. Ngày 2/12 âm lịch sắp tới là ngày kỵ tổ (giỗ chạp) trên đảo tưởng niệm ngày mất của ông thủy tổ và còn là ngày giỗ chung của tất cả những người tham gia vào đội dân binh Hoàng Sa ngày nào.
Ông Tuyền cũng chính là người đại diện tộc họ Phạm (Văn) (tộc họ lâu đời trên đảo, có rất nhiều người đi lính Hoàng Sa như Phạm Văn Nguyên, Phạm Văn Sang, Phạm Hữu Nhật…) đề nghị các cấp chính quyền dựng bia cho những ngôi mộ gió này. Tháng 4 hàng năm, người dân huyện đảo Lý Sơn lại long trọng tổ chức lễ khao lề thế lính Hoàng Sa để tri ân những người đã hy sinh vì sự yên bình của Lý Sơn và Tổ quốc.
Ông Tuyền cũng lưu giữ bất kỳ bài báo, tài liệu nghiên cứu nào có liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa bằng cách cắt ra cẩn thận rồi lồng vào các bìa ny lông trắng đóng trong một cuốn sổ. Khi nghe tin có tác giả bài viết, hay nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử ra thăm lại đảo, ông đều tìm gặp và lưu lại chữ ký dưới mỗi bài viết, ghi chú rõ cả ngày giờ đến đảo. Đến nay, “tài sản” của ông có đến bốn cuốn sổ dày cả trăm trang như vậy.
Ông Tuyền cười bảo: “Cẩn thận như vậy vì những bài báo này chứa đựng rất nhiều thông tin quý giá, có ích cho người tìm hiểu sau”. Khi có khách hỏi mượn, ông đều cho xem bản gốc tại nhà trước rồi cho mượn những bản photo để những tài liệu gốc được giữ nguyên vẹn.

Các ngôi mộ gió thờ các dân binh bỏ mạng ngoài biển để giữ gìn biển đảo, quê hương.
Điều thú vị khi khách đến với Lý Sơn là mỗi lần ra thăm đảo, nếu liên hệ trước đều được ông Tuyền tình nguyện làm “hướng dẫn viên” đưa đi tham quan khắp đảo, đến thắp hương tại các ngôi mộ gió, thăm Âm linh tự là nơi diễn ra lễ khao lề thế lính Hoàng Sa.
Chính sự am hiểu, tâm huyết, góp nhiều công sức vào việc lưu giữ tư liệu về những Đội dân binh Hoàng Sa đã khiến nhiều người dân gọi ông là “ông Hoàng Sa” của Lý Sơn.
Đào hầm chôn tài liệu Hoàng Sa
Từ sau năm 1990, các cơ quan chức năng và nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử như giáo sư Trần Quốc Vượng (Đại học Quốc gia Hà Nội), tiến sĩ Nguyễn Nhã (Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam), tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ (Giám đốc Sở Văn hóa Thể thao Du lịch, Chủ tịch Hội Nhà báo Quảng Ngãi)… đến Lý Sơn để tìm hiểu. Nhiều nhà báo ở xa muốn tìm hiểu về Hoàng Sa và Lý Sơn đều tìm đến nhà ông vì ông được ví như một “kho tàng sống” hiếm hoi ở đảo. Các bộ sưu tập của ông là những tài liệu quý, bằng chứng về việc khẳng định chủ quyền tại Hoàng Sa, minh chứng về văn hóa truyền thống đảo Lý Sơn.
Ông Tuyền tâm sự ông sưu tầm các cổ vật, lưu giữ các tài liệu quý liên quan đến Hoàng Sa và lịch sử huyện đảo Lý Sơn đơn giản vì “muốn cho con cháu biết được công lao của cha ông mình”.

Ông Tuyền bên bia tưởng niệm Chánh đội trưởng thủy quân Phạm Hữu Nhật.
Ông kể đã bắt đầu tìm hiểu, sưu tầm cổ vật từ những năm 1975. Nhiều cổ vật do dân đảo phát hiện khi thay đất trồng tỏi, lúc đầu nhiều người không hiểu giá trị các đồ vật này định vứt bỏ nhưng ông đã “linh cảm” và phát hiện được sự quan trọng của chúng. Ông tìm đến nơi có cổ vật, xin mang về, cất giữ cẩn thận; nhiều khi phải bỏ tiền ra mua các vì không muốn di sản của cha ông bị thất lạc…
Chính nhờ sự tẩn mẩn tìm tòi này, nhiều tư liệu quý về Hoàng Sa như văn bản phong thần cho những người giữ đảo, các ấn, dấu của người đi biển… được tìm thấy trong dân cũng được ông Tuyền phát hiện, lưu giữ.
Vừa qua, đảo Lý Sơn phải hứng chịu hai trận bão kinh hoàng, thiệt hại nặng nề. Trong cơn nổi giận của thiên nhiên, mạng sống của con người thật nhỏ bé, tuy nhiên điều đầu tiên mà người đàn ông này nghĩ đến là bảo vệ các tài liệu về Hoàng Sa. Ông nói: “Muốn bảo vệ chủ quyền lãnh thổ dân tộc thì trước hết phải bảo vệ, lưu giữ những giá trị văn hóa, di sản của cha ông để lại”. Chính vì lý do này, nên trước khi bão tới, ông đã phải đào hầm chôn tài liệu, cổ vật quý về Hoàng Sa, gốm sứ Sa Huỳnh.
Ông tâm sự: “Tôi sẽ tiếp tục công việc sưu tầm và lưu giữ cổ vật, để con cháu trên đảo và khách từ xa đến có cơ hội tham quan và tìm hiểu về văn hóa Lý Sơn. Nguyện vọng của tôi là sẵn sàng cống hiến những bộ sưu tập, tài liệu về Hoàng Sa và đảo Lý Sơn cho Nhà nước để những giá trị truyền thống, công lao của cha ông được càng nhiều người biết đến. Hy vọng con cháu trên đảo sẽ tiếp tục công việc tôi đang làm”.
Bảo Hòa

Nguồn:
http://vietnamnet.vn/chinhtri/201001/Gap-ong-Hoang-Sa-o-dao-Ly-Son-888824/

Huyện đảo Hoàng Sa và Cổng Thông tin điện tử Chính phủ

Anh Hoàng
Thời xưa quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của tỉnh Nam Ngãi, tức Quảng Nam và Quảng Ngãi ngày nay.
Ngày 15/6/1932 Pháp thiết lập một đại lý hành chính ở quần đảo Hoàng Sa lấy tên là Đại lý hành chính Hoàng Sa, thuộc tỉnh Thừa Thiên. Ngày 30/3/1938 Hoàng đế Bảo Đại ký dụ cho tháp nhập các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên.
Ngày 13/7/1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa chuyển quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của tỉnh Quảng Nam.
Ngày 9 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Nghị định tổ chức quần đảo Hoàng Sa thành huyện đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.

Từ 1/1/1997, Đà Nẵng tách khỏi Quảng Nam, trở thành thành phố trực thuộc trung ương, huyện đảo Hoàng Sa được đặt dưới sự quản lý của chính quyền thành phố Đà Nẵng.
(Xin xem thêm Nguyễn Quang Trung Tiến, Lịch sử quản lý hành chính quần đảo Hoàng Sa, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên – Huế, số 4 (75), 2009, 75-83 – http://bauxitevn.info/c/9158.html).
Như thế, về hành chính, quần đảo Hoàng Sa chưa bao giờ là một bộ phận của tỉnh Khánh Hòa. Thế mà Cổng Thông tin điện tử Chính phủ (http://gis.chinhphu.vn/) tuy trên bản đồ có ghi “Quần đảo Hoàng Sa (Đà Nẵng)” nhưng trong danh sách các huyện thuộc Thành phố Đà Nẵng lại không hề có huyện đảo Hoàng Sa.


Trong khi đó, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ lại ghi rất rõ rằng cả hai huyện đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc tỉnh Khánh Hòa.


Về mặt chủ quyền, huyện đảo Hoàng Sa thuộc Đà Nẵng hay thuộc Khánh Hòa thì cũng đều của Việt Nam. Nhưng lẽ nào Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, vốn được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xác định là “kênh cung cấp thông tin chính thống của Chính phủ trên Internet, phục vụ có hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đem lại nhiều tiện ích cho các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp, hình thành nhịp cầu trực tuyến gắn bó mật thiết Chính phủ với nhân dân.” (http://www.chinhphu.vn/portal/page?_pageid=517,39913199&_dad=portal&_schema=PORTAL) lại khinh suất đến thế hay sao?
A.H.

Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2010

Vài nét về lịch sử trạm khí tượng Hoàng Sa và đặc điểm khí hậu quần đảo Hoàng Sa

Nguyễn Việt [*]

Hình 1: Vị trí địa lý quần đảo Hoàng Sa (www.vi.wikipedia.org)
1. Vị trí địa lý, địa hình
Quần đảo Hoàng Sa là một nhóm gồm khoảng 30 đảo, bãi san hô và mỏm đá ngầm ở biển Đông, nằm cách đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) của Việt Nam khoảng 200km [1]. Ngoài ra, nếu tính thêm những hòn đảo, bãi đá, cồn đụn cát lúc nổi lúc chìm theo mực nước thủy triều thì số lượng đảo theo nghiên cứu của GS Sơn Hồng Đức, người đã từng đặt chân đến Hoàng Sa năm 1970, lên tới 120 [1].
Với chu vi bờ biển 518km, quần đảo Hoàng Sa nằm trong tọa độ 15045’-17015’ độ vĩ Bắc và 110000’-113000’ độ kinh Đông. Độ cao địa hình thay đổi không lớn, thấp nhất là những bãi san hô, bãi cát nằm dưới mực nước biển, cao nhất khoảng 14m tại những đảo đá [1].
2. Vài nét về lịch sử trạm khí tượng Hoàng Sa
Với vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng của quần đảo Hoàng Sa trong công tác dự báo bão trên biển Đông, từ năm 1932, chính quyền cai trị Pháp tại Việt Nam đã thành lập một trạm khí tượng trên đảo Phú Lâm mang số hiệu 48859 và một trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa (Pattle) mang số hiệu 48860. Trạm khí tượng Hoàng Sa có vị trí ở 16033’ độ vĩ Bắc và 111037’ độ kinh Đông ở độ cao 5,5m so với mực nước biển. Năm 1938, Chính phủ bảo hộ Pháp cho đặt bia đá, xây hải đăng, đài khí tượng và đưa đội biên phòng người Việt ra bảo vệ đảo Hoàng Sa của quần đảo Hoàng Sa. Hàng năm, các chuyên viên khí tượng được cử ra đảo làm nhiệm vụ. Số liệu ở trạm Hoàng Sa được quan trắc đều đặn từ năm 1939 đến năm 1974, hiện lưu trữ tại Đài Khí tượng Thủy văn Nam Bộ, riêng trạm Phú Lâm không thấy có số liệu. Chính vì tầm quan trọng của trạm khí tượng Hoàng Sa nên Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meteorological Organization – WMO) đã đưa trạm này vào mạng lưới phát báo quốc tế. Tất cả các nước trong Tổ chức Khí tượng Thế giới đều thừa nhận Hoàng Sa là trạm khí tượng của Việt Nam, nhất là từ khi Việt Nam Cộng hòa gia nhập Tổ chức Khí tượng Thế giới ngày 2 tháng 3 năm 1955. Trong hình 2 trình bày danh sách các trạm khí tượng, khí hậu của Việt Nam của Tổ chức Khí tượng Thế giới từ những năm 50, trong đó Hoàng Sa mang số hiệu 48860.

Hình 2: Danh sách các trạm khí tượng, khí hậu của Việt Nam do Tổ chức Khí tượng Thế giới công bố
Meteorological Station Information Lookup for 48860
WMO Index Number : 48860
Station Name : Hoang Sa Pattle
Country : Vietnam
WMO Region : 2
Station Position : 16-33N 111-37E (dms)
Upper Air Elevation (Hp) : 6 Meters

Các thông tin về trạm khí tượng Hoàng Sa đăng trên trang web: http://weather. noaa.gov/cgi-bin/nsd_lookup.pl? station= 48860
Từ năm 1974, Việt Nam không còn quản lý trạm khí tượng Hoàng Sa, do quần đảo này bị Trung Quốc xâm chiếm. Tuy nhiên, trạm khí tượng Hoàng Sa vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ phát báo bão trong mạng luới phát báo quốc tế cho đến hôm nay. Sau năm 1975, những chuyên viên khí tượng đã từng làm nhiệm vụ ở Hoàng Sa vẫn tiếp tục làm việc. Những năm tháng làm việc tại Hoàng Sa, mảnh đất thân yêu của Tổ quốc, đã để lại trong các anh những dấu ấn không phai mờ. Anh Võ Như Dân, sinh năm 1937, quê ở thành phố Đà Nẵng, là quan trắc viên tại trạm khí tượng Hoàng Sa năm 1972-1973, sau năm 1975 làm việc tại Đài Khí tượng Thủy văn Trung Trung Bộ, vẫn nhớ những kỷ niệm trong thời gian làm người lính canh trời, canh biển cho Tổ quốc ở Hoàng Sa.

Anh Võ Như Dân (người bên trái) là nhân viên trạm khí tượng Hoàng Sa trong năm 1972-1973.
3. Đặc điểm khí hậu quần đảo Hoàng Sa
Nằm cùng vĩ độ với Thừa Thiên Huế, ở trung độ Việt Nam, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam, nhưng khí hậu Hoàng Sa là khí hậu hải dương nên ôn hòa hơn khí hậu Thừa Thiên Huế. Đó là một vùng có khí hậu nóng ẩm, nắng nhiều, mưa ít, chịu nhiều tác động của gió bão.
3.1. Chế độ nhiệt


Ghi chú: T – Nhiệt độ trung bình tháng;
Tx – Nhiệt độ tối cao trung bình tháng;
Tn – Nhiệt độ tối thấp trung bình tháng;
Tx – Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối tháng;
Tn – Nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối tháng.
Chế độ nhiệt của quần đảo Hoàng Sa thuộc loại nhiệt đới gió mùa điển hình với một cực đại vào tháng 6 và một cực tiểu vào tháng 1. Nhiệt độ trung bình tháng 6 đạt 29,20C tương đương với nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 7 của trạm Huế. Trong khi đó nhiệt độ trung bình tháng 1 đạt 23,40C cao hơn Huế 3,40C. Do vậy, biên độ nhiệt độ năm của Hoàng Sa chỉ bằng 5,80C, thấp hơn Huế 3,60C. Do chịu ảnh hưởng của khí hậu hải dương nên chế độ nhiệt của Hoàng Sa không có tính biến động lớn theo thời gian và khá đồng nhất về mặt không gian. Ở Hoàng Sa không chịu ảnh hưởng của gió phơn nên không có nóng gay gắt trong mùa hè, về mùa đông, nước biển tỏa nhiệt nên ấm hơn lục địa. Nhiệt độ trung bình năm của Hoàng Sa cao hơn Huế khoảng 0,80C, trong khi đó nhiệt độ cao nhất tuyệt đối chỉ đạt 35,90C, thấp hơn Huế khoảng 5,00C. Ngược lại, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối của Hoàng Sa cao hơn Huế khoảng 7,00C.
3.2. Chế độ mưa
Chế độ mưa ở Hoàng Sa khác hoàn toàn so với trong đất liền, ở đây không có mưa tiểu mãn, mùa mưa đến sớm hơn, bắt đầu vào tháng 6 kết thúc vào tháng 11, đạt cực đại vào tháng 10 và cực tiểu vào tháng 2. Mùa mưa ở Hoàng Sa trùng với mùa hoạt động của bão nhiệt đới. Từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau là thời kỳ thiếu nước. Không giống như trong đất liền, không khí lạnh không gây mưa do thiếu yếu tố địa hình. Tổng lượng mưa năm chỉ bằng 40% lượng mưa tại Huế, đạt khoảng 1.219mm với 107 ngày mưa. Tuy nhiên, những khi ảnh hưởng trực tiếp của bão, lượng mưa một ngày có thể đạt tới 862mm, tương đương trong đất liền.


Ghi chú: R : lượng mưa trung bình tháng;
n : số ngày mưa trung bình tháng;
Rx : lượng mưa ngày lớn nhất trong tháng.
3.3. Chế độ gió
Ở Hoàng Sa có hai mùa gió thịnh hành rõ rệt: mùa gió Đông Bắc bắt đầu từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau; mùa gió Nam kéo dài từ tháng 4 đến hết tháng 9. Tốc độ gió trung bình lớn, đạt gần 5,0m/s, tần suất lặng gió ít, gió mạnh nhất lên tới cấp 12, 13. Trung bình hàng năm có khoảng 10 cơn bão hoạt động trên biển Đông, 3/4 trong số đó có ảnh hưởng đến Hoàng Sa. Do vậy, Hoàng Sa luôn luôn phải đương đầu với bão tố, nhất là trong thời kỳ từ tháng 6 cho đến tháng 9.

3.4. Các yếu tố khác
Độ ẩm trung bình tại Hoàng Sa khá cao: 84,5%, cao nhất xảy ra vào tháng 12 năm trước đến tháng 2 năm sau, dao động trong khoảng 90,3-90,5%; thấp nhất từ tháng 6 đến tháng 8, dao động trong khoảng 74-77%. Độ ẩm thấp nhất tuyệt đối có thể xuống rất thấp trong thời kỳ từ tháng 4 đến tháng 7, phổ biến từ 15-21%, thấp hơn trong đất liền, gây ra thời tiết oi bức khó chịu.
Tổng lượng bốc hơi không thay đổi lớn trong năm, hàng tháng khoảng 3,3mm, tổng lượng bốc hơi năm khoảng 40mm.
Trung bình hàng ngày có 7,7 giờ nắng, cả năm có khoảng 2.800 giờ, cao hơn trong đất liền, và phân bố khá đều trong các tháng.
Lượng mây tổng quan trung bình hàng ngày khoảng 5,0/10 bầu trời thấp hơn trong đất liền.
Sương mù hầu như ít xảy ra ở Hoàng Sa, số ngày có dông cũng rất ít, trung bình hàng năm chỉ có 4,6 ngày dông.
4. Kết luận
- Khí hậu quần đảo Hoàng Sa là khí hậu nhiệt đới gió mùa, mang tính chất hải dương điển hình. Đó là một vùng khí hậu nóng ẩm, mưa ít, nắng nhiều, gió lớn, có nhiều tiềm năng khai thác năng lượng gió, năng lượng mặt trời.
- Điều kiện thời tiết ở đây rất thuận lợi cho hoạt động trên biển như ít sương mù, trời quang, mây tạnh tầm nhìn xa lớn.
- Điều kiện bất lợi là lượng mưa ít, có khả năng thiếu nước trong 5 tháng từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau. Hàng năm phải đương đầu với 7-8 cơn bão. Có thời kỳ khí hậu oi bức do nhiệt độ cao độ ẩm thấp.
- Địa hình thấp, bị ảnh hưởng bởi thủy triều, sóng lớn và mực nước biển dâng.
N.V.

Chú thích:

[*] Trung tâm Khí tượng Thủy văn Thừa Thiên Huế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bách khoa toàn thư mở vi.wikipedia. org./wiki/
2. Nha Giám đốc Khí tượng. Trung bình khí hậu, Sài Gòn, 1974.
3. Đỗ Đình Cương. Khí hậu Việt Nam. Nha Giám đốc Khí tượng, Sài Gòn, 1964.
4. Tổng cục Khí tượng Thủy văn. Lịch sử khí tượng thủy văn Việt Nam, Phần biên niên Cổ-Trung đại-Cận đại, Hà Nội, 1995.
TÓM TẮT
Trạm khí tượng Hoàng Sa nằm trên quần đảo Hoàng Sa, một bộ phận lãnh thổ Việt Nam. Tổ chức Khí tượng Thế giới đã công nhận trạm Hoàng Sa là của Việt Nam trong danh mục các trạm khí tượng, khí hậu từ rất lâu. Nhờ những số liệu khí tượng quan trắc được từ năm 1939 đến năm 1974, chúng ta có thể nêu lên một số đặc điểm cơ bản của khí hậu nhiệt đới gió mùa mang tính chất đại dương điển hình của Hoàng Sa. Đây là nguồn số liệu quý hiếm, có thể dùng tham khảo đối với các khu vực khác trên biển Đông có điều kiện tương tự. Là lãnh thổ của Việt Nam, Hoàng Sa cần được nghiên cứu sâu hơn về điều kiện tự nhiên, trong đó khí hậu là một hợp phần quan trọng.
ABSTRACT
A SKETCHY HISTORY OF HOÀNG SA METEOROLOGY STATION
AND CLIMATIC CHARACTERISTICS OF THE PARACELS
The Hoàng Sa Meteorological Station lies on Paracels, an intergral part of Vietnam’s territory. For a long time the WMO, with their list of the world’s meteorology and climatology stations, tacitly recognized the Paracels as part of Vietnam. Due to meteorological date, observed from 1939-1974 we can present some important features of monsoon tropical, oceanic climate of the Paracels. This is valuable, scarcely database can to be referenced. We have to study more deeply about natural conditons of the Paracels, because the Paracels is a part of Vietnam.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, Sở Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên – Huế, số 6 (77), 2009, 28-33.